Cánh kiến đỏ (Laccifer lacca Kerr) thuộc họ cánh kiến đỏ (Lacciferidae), là một loài côn trùng có kích thước nhỏ, thân dài 1,5-2mm ở con đực, 4,5-5mm ở con cái, đầu có một đôi râu chẻ đôi, miệng có vòi để hút nhựa cây. Ngực chia 3 đốt, mỗi đốt có 2 chân phủ đầy lông, phần chót có 2 lông đuôi dài, mảnh và cứng. Cả con đực và con cái đều không có cánh, màu đỏ da cam. Ở dạng ấu trùng, chúng có màu đỏ, kích thước khoảng 0,25-0,5mm.
Rệp cánh kiến đỏ phân bố ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, nó xuất hiện phổ biến ở Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La), Việt Bắc (Tuyên Quang, Hà Giang), Khu 4 cũ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk) và Tây Nam Bộ (Tây Ninh). Sống chủ yếu trên cây đậu chiều, cọ phèn, vải, táo ta, đề... Sau 3 lần lột xác, ấu trùng trở thành rệp trưởng thành, hút nhựa của cây chủ, rồi chính nó lại tiết nhựa để làm tổ. Nhựa được tiết ra từ các tuyến trên lớp kitin phủ kín thân rệp trừ vùng lỗ thở và hậu môn.
Cánh kiến đỏ có tác dụng điều trị bệnh u xơ tử cung (Ảnh minh họa)
Vào tháng 4-5 và tháng 9-10 hằng năm, người ta thu hoạch nhựa cánh kiến đỏ bằng cách cắt những cành có nhựa bao quanh, đem về, gỡ lấy lớp nhựa, dùng bông hoặc vải thấm nước, lau sạch nhiều lần mặt trong, rồi phơi chỗ thoáng gió, râm mát cho khô (không được phơi nắng vì nhiệt độ cao sẽ làm nhựa chảy mềm, kết lại thành cục gây kém phẩm chất). Đó là những phiến dài, nửa hình trụ, dày mỏng không đều, mặt ngoài nhăn nheo, lấm tấm, có màu nâu cánh gián, bên trong màu đỏ tía, chứa 75% nhựa đặc nguyên chất, 4-6% sáp, 6,5% chất màu, 9,5% tạp chất. Thành phần hóa học gồm các chất cao phân tử của acid shellolic và acid aleuritic, tanin, chất sáp là ester của các alcol tachardiacrol và laccerol, chất màu là acid laccaic, một dẫn xuất của anthraquinon có màu đỏ.
Dược liệu tử trùng giao có vị đắng, hơi ngọt mặn, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, cầm máu, hoạt huyết, chữa bạch đới, phụ nữ sau khi sinh bị chóng mặt, chân tay rã rời, ban chẩn, tê liệt. Liều dùng hằng ngày: 4-8g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác để chữa kinh bế, tích huyết thành báng máu, hòn cục hay u xơ tử cung sinh rong huyết: Tử trùng giao 50g, hồi đầu thảo 30g, nga truật 30g; tất cả phơi hoặc sấy khô, tán bột, rây bột mịn; ngày uống 8-10g chia làm hai lần.
Dùng ngoài, tử trùng giao tán bột mịn, bôi xoa chữa mụn nhọt, hắc lào, ghẻ lở. Dung dịch cồn 5% tử trùng giao dùng chấm vào răng để phòng và trị đau nhức răng, sâu răng. Có thể dùng tử trùng giao làm tá dược để bao thuốc viên chống ẩm.
Chú ý: Tránh nhầm với cánh kiến trắng (Styrax tonkinensis Pierre) là một loài thực vật cho nhựa màu trắng trong với tên thuốc là an tức hương, cũng được dùng làm thuốc chữa bệnh.
Để điều trị u xơ tử cung có thể kết hợp giữa lá trinh nữ hoàng cung và củ tam thất sống (có trồng nhiều ở miền Bắc, còn có tên gọi là kim bất hoán) như sau: chọn lá trinh nữ hoàng cung có chiều dài 60 cm, chiều ngang độ 5 cm, phơi âm can (phơi trong bóng râm) từ 3-5 ngày. Sau đó đem thái nhỏ (ngắn chừng 1-2 cm), rồi sao vàng. Mỗi ngày dùng 3-5 gr (lá đã phơi khô, sao vàng) đem sắc uống. Kết hợp với ăn sống 20-30 gr củ tam thất rửa sạch thái lát mỏng như móng tay, dùng loại 5-6 củ 100 gr. Dùng liên tục như thế trong 7 ngày (tuần thứ nhất). Bảy ngày tiếp theo (tuần thứ hai) chỉ ăn tam thất sống mỗi ngày 20-30 gr (cũng làm như trên). Lúc này tạm ngừng không uống nước sắc lá trinh nữ hoàng cung. Bảy ngày tiếp theo (tuần thứ ba) lại dùng nước sắc lá trinh nữ hoàng cung phối hợp với ăn tam thất giống y như cách làm của tuần thứ nhất. Bảy ngày tiếp theo (tuần lễ thứ tư) chỉ ăn tam thất sống giống y như tuần lễ thứ hai.
Bảy ngày tiếp theo (tuần lễ thứ năm) lại dùng nước sắc lá trinh nữ hoàng cung với tam thất sống như tuần lễ thứ nhất và tuần lễ thứ ba. Bảy ngày tiếp theo nữa (tuần lễ thứ sáu) chỉ ăn tam thất sống như tuần lễ thứ hai và thứ tư.
Với mức độ sử dụng và liệu trình như trên, nhiều trường hợp u xơ tử cung đã được chữa thuyên giảm. Thực tế cũng cho thấy dùng lá trinh nữ hoàng cung phơi khô âm can, sao vàng có kết quả tốt hơn dùng lá trinh nữ hoàng cung còn tươi. Trinh nữ hoàng cung có tên khoa học là Crium Latifolium. L., theo kinh nghiệm, chủ yếu để chữa một số bệnh trong đó có việc hỗ trợ chữa ung thư vú, ung thư tử cung và ung thư tiền liệt tuyến. Cũng có người dùng để hỗ trợ điều trị ung thư dạ dày, ung thư phổi, ung thư gan, đau dạ dày