Trong hệ thống sinh dục của mình, mỗi phụ nữ có 2 buồng trứng. Chúng nằm ở trong chậu hông (khung chậu). Mỗi buồng trứng có kích thước và hình dạng tương đương với một hạt thị. Buồng trứng có 2 chức năng, đó là sản xuất ra trứng và các nội tiết tố nữ. Hằng tháng, sẽ có 1 trứng được phóng thích khỏi 1 buồng trứng, quá trình đó gọi là sự rụng trứng (hay sự phóng noãn), trứng sau khi được phóng thích sẽ qua vòi trứng để đến tử cung (dạ con).
Buồng trứng là nguồn chính sản sinh ra các nội tiết tố nữ là estrogen và progesterone. Các nội tiết tố này tác động đến quá trình phát triển tuyến vú, hình dáng cơ thể và hệ thống lông tóc của người phụ nữ. Chúng cũng tác động đến chu kỳ kinh nguyệt và mang thai
Đối tượng nguy cơ
Nguyên nhân chính xác của bệnh ung thư buồng trứng vẫn chưa được biết rõ ràng. Tuy nhiên các nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng các yếu tố sau làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng
Tiền sử gia đình. Những người có quan hệ huyết thống bậc 1 (mẹ, con gái, chị em gái) hoặc những phụ nữ đã bị ung thư buồng trứng tự bản thân họ sẽ có nguy cơ mắc cao hơn đối với loại ung thư này. Khả năng mắc sẽ đặc biệt cao nếu như có từ 2 người trở lên trong số những người có quan hệ huyết thống bậc 1 mắc bệnh này. Nguy cơ có thể nhỏ hơn 1 chút, nhưng vẫn cao hơn bình thường nếu như có những người có quan hệ huyết thống khác như bà, cô dì, chị em họ gần mắc bệnh ung thư buồng trứng. Tiền sử gia đình mắc ung thư vú hay ung thư đại tràng cũng làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
Tuổi. Khả năng phát sinh ung thư buồng trứng tăng theo tuổi của người phụ nữ. Hầu hết các ung thư buồng trứng xuất hiện ở tuổi trên 50, và nguy cơ cao nhất là ở tuổi trên 60.
Mang thai. Những phụ nữ chưa từng sinh con có nguy cơ cao hơn so với những phụ nữ đã sinh con. Trên thực tế, sinh càng nhiều con thì nguy cơ mắc ung thư buồng trứng càng giảm.
Tiền sử bản thân. Những phụ nữ có tiền sử bị ung thư vú hoặc ung thư đại tràng sẽ có nhiều khả năng mắc ung thư buồng trứng hơn so với những phụ nữ không có tiền sử.
Thuốc kích thích phóng noãn. Thuốc kích thích phóng noãn có thể làm tăng nhẹ khả năng mắc ung thư buồng trứng. Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu vấn đề này.
Bột talc. Một số nghiên cứu gợi ý rằng những phụ nữ sử dụng bột talc ở vùng sinh dục qua nhiều năm sẽ tăng khả năng mắc ung thư buồng trứng.
Điều trị thay thế hormone. Có 1 số bằng chứng cho thấy những phụ nữ điều trị hormone thay thế sau khi mãn kinh cũng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng cao hơn 1 chút.
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc ung thư buồng trứng là 4,6/100.000 phụ nữ. Hầu hết các trường hợp xuất hiện ở tuổi trên dưới 50, nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở tuổi trẻ hơn.
Khi chúng ta biết được nhiều hơn về các nguyên nhân sinh ung thư buồng trứng thì chúng ta cũng biết làm thế nào để làm giảm khả năng mắc bệnh này. Một số nghiên cứu cho thấy cho con bú và dùng thuốc tránh thai có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Các biện pháp này làm giảm số lần phóng noãn, và các nghiên cứu cho rằng giảm số lần phóng noãn có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
Những phụ nữ đã được phẫu thuật tránh thai như thắt vòi trứng hoặc cắt tử cung sẽ có ít nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Thêm vào đó, 1 số nghiên cứu cho thấy giảm lượng mỡ trong khẩu phần ăn có thể sẽ là giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
Những phụ nữ có nguy cơ cao do có tiền sử gia đình có thể được xem xét để cắt buồng trứng dự phòng. Phẫu thuật này trong nhiều trường hợp (nhưng không phải tất cả) đã phòng ngừa được bệnh. Các nguy cơ và tai biến của phẫu thuật cũng nên được cân nhắc kỹ lưỡng. Mỗi phụ nữ nên thảo luận kỹ với bác sỹ về lợi ích và nguy cơ trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Điều đáng lưu ý là có 1 hay nhiều trong số các yếu tố nguy cơ nêu trên không có nghĩa là chắc chắn người phụ nữ đó sẽ bị ung thư buồng trứng, nhưng khả năng mắc phải sẽ cao hơn bình thường. Những chị em quan tâm đến bệnh có thể nói chuyện với các thầy thuốc chuyên khoa như Bác Sỹ Phụ Khoa, Bác Sỹ Phụ Khoa Ung Thư hoặc Bác Sỹ Nội Khoa Ung Thư. Bác sỹ có thể gợi ý các cách làm giảm khả năng mắc bệnh và có thể đưa ra 1 kế hoạch, 1 lịch trình kiểm tra sức khoẻ cụ thể.
Dò tìm ung thư buồng trứng
Phát hiện và điều trị sớm thì kết quả sẽ tốt hơn. Nhưng ung thư buồng trứng là 1 căn bệnh khó phát hiện sớm. Trong nhiều trường hợp, người phụ nữ không hề có triệu chứng gì cho đến khi bệnh phát triển đến giai đoạn muộn. Các nhà khoa học đang nghiên cứu phương pháp nào có thể phát hiện ung thư buồng trứng trước khi các triệu chứng xuất hiện. Họ đang thử nghiệm đo nồng độ CA-125, một chất chỉ điểm khối u, ở trong máu. Chất này thường tăng cao ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng. Họ cũng đang thử đánh giá vai trò của siêu âm qua đường âm đạo, một xét nghiệm có thể giúp phát hiện bệnh sớm
Nhận biết các triệu chứng
Ung thư buồng trứng thường không có các dấu hiệu hoặc các triệu chứng cho đến tận giai đoạn phát triển muộn của chúng. Dấu hiệu và triệu chứng của ung thư buồng trứng có thể gồm:
- Khó chịu và/hoặc đau ở vùng bụng nói chung (ấm ách, khó tiêu, căng trướng bụng...)
- Buồn nôn, tiêu chảy, táo bón hoặc đi tiểu thường xuyên.
- Kém ăn.
- Cảm thấy đầy bụng ngay cả sau bữa ăn nhẹ.
- Tăng hoặc giảm cân không rõ lý do.
- Chảy máu âm đạo bất thường.
Những triệu chứng này có thể được gây ra bởi ung thư buồng trứng hoặc do các bệnh khác nguy hiểm hơn. Với bất kỳ một trong các triệu chứng này thì sự kiểm tra của bác sĩ là rất quan trọng.
Các hướng lan tràn của ung thư buồng trứng
Để giúp tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng, bác sĩ phải đánh giá tiền sử bệnh của phụ nữ đó. Bác sĩ cũng phải thực hiện các khám xét lâm sàng và cho làm các xét nghiệm chẩn đoán. Một vài các kiểm tra và xét nghiệm có ích được mô tả dưới đây :
Khám khung chậu bao gồm : khám tử cung, âm đạo, buồng trứng, ống dẫn trứng, bàng quang và trực tràng để tìm ra bất kỳ một dấu hiệu bất thường nào về kích thước hoặc hình dáng của chúng. (PAP test, một phương pháp kiểm tra tốt để kiểm tra ung thư cổ tử cung, thường được thực hiện với khám khung chậu, nhưng nó không phải là cách đáng tin cậy để tìm hoặc chẩn đoán ung thư buồng trứng).
Siêu âm là phương pháp sử dụng sóng âm có tần số cao mà tai người không nghe thấy. Những sóng này được chiếu vào buồng trứng. Mẫu thu được từ âm thanh dội lại tạo nên hình ảnh gọi là biểu đồ âm. Các mô, nang khí, túi nước và khối u sẽ cho các hình ảnh khác nhau trên biểu đồ.
Xét nghiệm CA-125 là xét nghiệm máu để đo mức CA-125, một sản phẩm của khối u, thường được tìm thấy cao hơn bình thường ở những phụ nữ bị mắc ung thư buồng trứng.
Chụp khung đại tràng bằng barit, là một phương pháp chụp tia X đại tràng và trực tràng. Bari cản tia X tại đại tràng và trực tràng, làm cho các khối u và các phần khác ở bụng dễ quan sát hơn.
Chụp cắt lớp là một loạt các ảnh về vùng quan tâm trong cơ thể, được tạo ra bằng sự kết hợp của máy tính với máy X quang.
Sinh thiết là việc lấy một mẫu mô để kiểm tra dưới kính hiển vi. Các bác sỹ giải phẫu bệnh lý sẽ nghiên cứu mô này để chẩn đoán. Để lấy được mô, các nhà phẫu thuật thực hiện một thủ thuật mở bụng (một cuộc phẫu thuật để mở bụng). Nếu nghi ngờ có ung thư thì bác sĩ phẫu thuật sẽ thực hiện thủ thật cắt buồng trứng (cắt lấy toàn bộ buồng trứng). Điều này là rất quan trọng bởi vì nếu có ung thư thì việc cắt lấy một mẫu mô qua lớp bên ngoài của buồng trứng có thể cho phép các tế bào ung thư thoát ra và gây nên di căn.
Nếu chẩn đoán là ung thư buồng trứng thì bác sĩ sẽ đánh giá giai đoạn của bệnh. Xem xét thật cẩn thận để tìm ra liệu tế bào ung thư đã di căn chưa, và nếu rồi thì tới những phần nào của cơ thể. Đánh giá và theo dõi có thể bao hàm cả phẫu thuật, chiếu tia, các phương pháp chẩn đoán hình ảnh và làm các xét nghiệm khác. Kế hoạch điều trị của bác sĩ sẽ được quyết định dựa vào giai đoạn bệnh.